Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2008

Trần Kiêm Đoàn

Theo Talawas

Trần Kiêm Đoàn

Tiêu Dao Bảo Cự và “Mảnh trời xanh trên thung lũng”

Mảnh trời xanh trên thung lũng là một tác phẩm “bút sự” của Tiêu Dao Bảo Cự do Văn Mới xuất bản lần đầu tiên tại Hoa Kỳ năm 2007 (ghi trong phần thông tin xuất bản); nhưng mãi tới năm 2008 mới đến tay độc giả ở Mỹ.

Tạm quên đi những thể loại văn chương quy ước để gọi cuốn sách dày 730 trang này là “bút sự” vì đây là một tập hợp tuyển văn mang đậm nét tự sự. Nhưng đây cũng là một sự phối hợp đầy mầu sắc của ký sự, hồi ức, khảo luận, chính luận, triết luận, thơ,… qua những dòng tâm bút của tác giả. Đã viết ra những hoài niệm, suy tư và cảm xúc của mình thì có con chữ, dòng chữ, mớ chữ nào mà không là… tâm bút nhỉ? Đành vậy, nhưng khi tính hư cấu và lý luận mờ nhạt; nhường lại cho một nhịp độ cảm xúc, suy tư, trăn trở dồn dập, dâng trào và chiếm lĩnh gần hết dòng văn của tác giả thì chất “tâm bút” sẽ đậm đà hơn.

Thực tế, không ai hiểu những nhà văn, nhà thơ viết truyện, làm thơ lúc nào. Ở quán cà phê, nơi thư viện, trong vắng lặng, giữa bão loạn… qua tâm thức ngục tù hay phơi phới tự do chăng? Không phải là văn phong, cũng chẳng phải là văn ý mà là cái Văn Tình tỏa chiết mông lung trong tác phẩm làm cho người đọc hiểu được tác giả: Đọc chữ bên ni trần gian mà hiểu được cái… vô ngôn bên tê trời diệu vợi! (Ý của Từ Thẩm Hạnh – Taiwan, 2007)

Hiểu được cái cao vời hay sâu thẳm mà vì sự bất tài (những nhà văn lừng lẫy xưa nay đều cảm nhận sự “bất tài” đó vì cảm xúc khởi phát là đại dương mà điều viết ra là những dòng kinh rạch) nên tác giả chỉ nói ra được bằng lời một cách… cà lăm, cà cặp. Sau 49 năm thuyết giáo, đức Phật nói: “Ta chẳng nói điều gì cả!” Nguyễn Du kết thúc một Truyện Kiều đầy tình, hận mênh mông bi tráng lại tự thú như anh cai mõ đầu làng, rằng: “Mua vui cũng được một vài trống canh…!” Tagore sau một trường thơ hoa gấm đã nhắn lại với đời: “Những cảm thức thi ca thì bay vi vút như sao băng. Mà ta không băng mình theo kịp nên cả đời… cà lăm cà cặp!”whispering on stuttering…! Vì xúc động, vì yêu thương, vì hận thù và vì phải hóa giải hận thù vây bủa nên người nghệ sĩ vừa phải dấn thân, vừa phải đầu hàng để có thể yên thân đứng giữa hai sự cuốn hút cực đoan mà người ta quen gọi lơi khơi là… trung đạo chân tâm chăng?

Đọc văn của Tiêu Dao Bảo Cự là đọc… Văn Tình. Một nguồn tình cảm lãng mạn, vỡ bờ; nhưng cũng rất đậm tình người và chân thật. Mấy năm trước đây, khi đọc tác phẩm đầu tay Nửa đời nhìn lại; và bây giờ đọc Mảnh trời xanh trên thung lũng của Tiêu Dao Bảo Cự, tôi như thấy được thấp thoáng bóng mình một thời trong đó. Thấy được mình là thấy được bạn bè, những người tuổi trẻ Việt Nam thuộc thế hệ Chiến tranh Việt Nam đã lớn lên bằng tuổi chiến tranh và bằng nỗi tự hào cùng khổ nhục của đất nước – hơn một nửa đã ra đi và còn một ít quanh đây – nên Bảo Cự tự nguyện làm trang sách mở rộng. Anh viết về những mảnh đời riêng của chính mình mà ngỡ như đang nói đến những vết thương xã hội, những ung nhọt còn đau nhức và những vết sẹo chưa lành qua những chặng đường thăng trầm của đất nước.

Tiêu Dao Bảo Cự là một “týp” con trai Huế điển hình thuộc thế hệ Chiến tranh Việt Nam: Bão nổi, lý tưởng, lãng mạn, cố gắng trung thành với chính mình dù phải trả những giá đời bất chấp. Huế là vùng đất trầm lặng. Ngỡ như sinh con gái để làm… Tôn Nữ và sinh con trai để làm thầy dạy học hay ra làm… quan. Cái “tướng” hay sự biểu hiện của người con trai Huế bên ngoài có vẻ an phận thủ thường như thế; nhưng cái “tánh” hay bản chất đích thực bên trong là những cơn mưa nguồn thác lũ mỗi năm mười hai tháng tạo nên những “chấn động dị thường” – nói như kiểu Bùi Giáng khi ra Huế học. Người con trai Huế nào được chút học hành cũng đều có những giấc mộng lớn, canh cánh và máy động hoài bên những giấc mộng con. Giấc mơ“quyết ném thanh khâm sang cẩm tú, quyết xây bạch ốc lại lâu đài” là những ảo-ảnh-có-thực như hạnh phúc, như tình yêu, như quyền lực, như vinh quang, như tuyệt vọng. Người ta ngỡ nắm trong tay chắc mẩm một gia tài giá trị nào đó, nhưng rồi đột ngột ra đi một hột nút áo cũng không được mang theo! Con trai Huế vừa là tình nhân, vừa là chứng nhân, vừa là nạn nhân của những ảo ảnh có thực như thế trùng trùng vây quanh cuộc sống từ lúc mới ra đời.

Tiêu Dao Bảo Cự đã nhìn thấy được ước mơ, lý tưởng, bản lĩnh… tuổi trẻ phương cường của anh phóng chiếu trên một “mảnh trời xanh”. Thế nhưng, tới lúc ngoái nhìn về một dòng đời vừa bão liệt, vừa long đong đầy bi tráng đã trôi qua, đang trôi qua – và tiến gần tới chân cầu biên giới của một cõi về… ở phù du – anh mới thấy chỉ còn “mảnh trời xanh trên thung lũng”. Giá như sách chưa xuất bản khi tôi ngồi ăn cơm trưa với Bảo Cự ở nhà Võ Văn Cần tại Sài Gòn hai năm trước, có lẽ tôi sẽ đề nghị với anh là cứ ôm một “mảnh trời xanh” ấy; nhưng hãy mang nó ra khỏi bóng dáng một thung lũng nào đó, mà qua tác phẩm của anh sao tôi hình dung nó chơ vơ và buồn hiu hắt… chi lạ! Một mảnh trời xanh trên ảo vọng có đỡ buồn hơn chăng?

Sự chơ vơ với nét buồn hiu hắt của một thung-lũng-Bảo-Cự hiện bóng trong tôi khi đọc tác phẩm của anh. Thung lũng ấy phảng phất vẻ xót xa của một sự “cũng đành” và nhận chịu qua sự tưởng tượng của riêng tôi về một Tân Sở của vua Hàm Nghi, rồi một Réunion giam giữ vua Duy Tân… Căn cứ địa hay là chốn giam cầm thì cũng chỉ là những ngõ đường cùng không lối thoát về hệ lụy nhân sinh; thế nhưng đó là nơi khởi đầu sinh động cho một dòng sống có ý nghĩa để mình tìm lại được chính mình. Tôi lạnh mình đọc những dòng thơ ghi đậm nét ở bìa sau cuốn sách Mảnh trời xanh trên thung lũng xuất hiện như một sự minh họa thêm cho 5 dòng tiểu sử khiêm tốn của tác giả:


“Tôi một mình kinh hoàng quằn quại
Tôi giữa vô cùng
Giữa nghìn trước nghìn sau
Giữa người người lớp lớp
Tôi khát khao hơn sa mạc
Tôi rỗng không hơn hư vô
Tôi chết giấc trong quan tài thịt xương bé nhỏ
Tôi chỉ là tôi
Ai còn là tôi
Một đời tôi đói khát”


Khát khao hơn sa mạc mà lại rỗng không hơn hư vô… là một cặp phạm trù mang tâm thức triết lý lãng mạn hơn là ý chí hành động cách mạng. Một thi sĩ lãng mạn thật đáng yêu, nhưng một chiến sĩ (hay ít nhất mang tâm thức chiến sĩ) lãng mạn sao mà xót xa đến thế. Mang hư vô mà gọi đàn – Ai còn là tôi – để cùng dấn bước về đâu quanh triền thung lũng cô đơn ấy? Chỉ có người biết “mang hư vô” như kẻ hành hương mang thánh giá vào đời mới mong đạt được một lý tưởng làm người cần thiết mà Tiêu Dao Bảo Cự đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm, rằng là, phải trả một giá rất đắt để được trung thành với chính mình. Kẻ không trung thành với chính mình, đánh đĩ với chân tâm, thì làm sao mà trung thành với tha nhân và thế cuộc...

Đối với những người ở phương Tây, có dịp đọc qua sự bi phẫn về thân phận làm người của các tuyến nhân vật trong Giờ thứ hai mươi lăm của Georghiu, Quần đảo Gulag của Alexander Solzhenitsyn, Những bàn tay bẩn của Jean Paul Sartre… thì quả thật những “sự cố” trong tác phẩm của Tiêu Dao Bảo Cự không còn xa lạ bao nhiêu. Thế nhưng, phần cuối mang tính tự truyện của cuốn sách được ghi lại một cách chi tiết sống thực và dồn dập như những dòng bút ký chiến trường: Vừa viết, vừa chạy, vừa dáo dác nhìn hầm hố chung quanh và mìn bẫy chết người. Tiêu Dao Bảo Cự và những người bạn đồng hành của anh như Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Mai Thế Lĩnh… cùng ở Đà Lạt, cùng một chí hướng phản kháng và đấu tranh bằng ngọn bút như nhau và cùng phải đương đầu trước một hoàn cảnh bức bách giống nhau.

Tiêu Dao Bảo Cự đã dành phần lớn số trang trong tác phẩm cho các đề tài đấu tranh chính trị với nhà cầm quyền Việt Nam. Đó là một cuộc vận động tranh đấu đòi tự do dân chủ qua hình thức báo chí như thời Nhân văn - Giai phẩm. Từ thái độ phê phán, phản kháng đến đối kháng và có khi bất chấp. Nhưng cơ hội Ra Đường như Nhân văn - Giai phẩm thời thập niên năm mươi tại miền Bắc và Xuống Đường như phong trào sinh viên tranh đấu phát khởi từ Huế và lan khắp miền Nam thời sáu mươi đã bị khống chế chặt chẽ từ trong trứng nước.

Trước thử thách, Bảo Cự có lúc liên tưởng tới một lối xử thế tiếp vật bình dân là nếu gặp một tảng đá cản đường thì hãy đi quanh tìm một lối rẽ khác chứ chẳng ai năng động tới mức lấy sức bình sinh, đưa tay không đấm vào đá để mở đường. Nhưng ở đây (trong phần cuối của tác phẩm) những người “chọi đá” đã chọn một thái độ không có sự lựa chọn nào khác là nhận chịu hoàn cảnh. Không rẽ lối, không chọi đá mà nhìn chằm chằm vào đá. Đá không rung động hay hiểu được tia nhìn. Người nhìn không làm thay đổi đá cho nên sức mạnh phản kháng chỉ còn dồn tụ vào tâm thức. Khi nói đến tâm thức “chiến thắng, chiến bại” trong một cuộc đương đầu nào đó, người ta thuờng nhớ tới lão ngư phủ Santiago của Hemingway. Trong tác phẩm khiêm tốn về lượng mà vĩ đại về phẩm mang tên Ngư ông và biển cả (The Old Man and the Sea), văn hào này đã đưa ra một hình ảnh tuyệt vời của kẻ Khải hoàn Chiến bại (The Victory of Defeat). Nhân vật chính, ngư ông Santiago, sau tám mươi bốn ngày vật lộn với biển khơi không bắt được mống cá nào. Đến ngày thứ tám mươi lăm ông bắt được kình ngư. Nhưng qua bao nhiêu vật lộn gian nan cho đến khi về tới bến thì con kình ngư đã bị bọn tôm cá “chôm chỉa” dọc đường rút rỉa chỉ còn trơ lại bộ xương. Lão ngư ông Santiago ca khúc khải hoàn trong chiến bại nầy có đôi mắt tươi mới vén được trời xanh mà nhìn đời: “Tất cả nơi ông đều cũ mèm, trừ đôi mắt trong xanh mầu biển của lão rực lên vẻ gọi mời đắc thắng.” Và nơi ông chỉ có một con đường sáng rực hướng đi: “Con người ta sinh ra có thể bị hủy diệt nhưng không thể nào bị đánh bại.”

Luận anh hùng chớ kể hơn thua! Một ý niệm cổ điển rất Kinh Kha, rất “hảo hớn Tàu”, nhưng cũng đầy thuyết phục trên giá trị nhân bản và vị trí làm người thực tế.

Những tháng ngày cô đơn với mảnh trời xanh trên thung lũng Đà Lạt, Tiêu Dao Bảo Cự đã sống một cách rất… thiền, nếu hiểu thiền như là một sự tỉnh thức để nhận ra mình và sống trung thành với chính mình trong từng mảnh nhỏ hiện hữu của thời gian. Anh đã hé mảnh trời xanh để thấy được mặt mình, mặt người. Những mặt thật trắng như thời trẻ dại! Trong cảnh tranh tối, tranh sáng anh em nhìn rõ mặt nhau thật khó. Có một nhà văn nào đã kêu lên đầy xót xa như thế đó! Bảo Cự đã sống với thần hồn tiêu dao và thần trí bão loạn trong những ngày cô đơn nhất trên thung lũng, dưới mảnh trời xanh để khám phá được một sự thật mà ai cũng thấy, nhưng lại ít người dám sống:“Mùa khô năm nay, chắc do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, dòng suối chảy qua vườn tôi và chiếc ao bé nhỏ của tôi bắt đầu cạn kiệt. Phải chăng khi nước trong ao khô cạn, tôi không thể nhìn bầu trời phản chiếu qua mặt nước cũng như khi tâm hồn ta không còn tình yêu, ta không thể hiểu được điều gì đẹp đẽ cao xa.” (Trang 719). Chính trị là cái ao khô cạn của tâm hồn nên chẳng có gì để nói và đáng nói trong thi ca thuần khiết.

Đã có một vài nhận định văn học cho rằng, nói đến tác phẩm văn chương của Tiêu Dao Bảo Cự là cần phải nói đến khía cạnh chính trị. Tôi lại nghĩ khác. Một nhà văn và một nhân vật chính trị khác nhau. Nhà văn nói đến thân phận của con người; trong khi nhà chính trị nói đến con người của thân phận – thân phận bị lãnh đạo, một cách nói khác là bị cai trị. Bởi vậy, nhà văn nhìn ngắm, chung sống và chia sẻ ngọt bùi với con người; trong khi nhà chính trị sử dụng, sở hữu và ngự trị con người. Nhìn nghệ thuật qua chính trị, chỉ thấy đền đài và văn bản. Nhìn Bảo Cự qua văn chương thì hãy trả anh về với mảnh trời xanh trên sương khói sông Hương…

*


Đất Huế, với phong thổ gian truân về mọi mặt đã tạo nên một tâm lý phản kháng: Phản kháng sự khắt khe của hoàn cảnh, phản kháng quyền lực áp bức đọa đày, và trên hết là phản kháng cái tâm thức an bài thủ phận. Nhưng bên cạnh đó, có một nguồn tâm lý thỏa hiệp, thanh thản, bình an đầy mâu thuẫn nẩy sinh. Thiên nhiên kỳ tú xung quanh đã mở ra những phương trời cao rộng cho những viễn tưởng – có khi chỉ là ảo vọng – về cuộc đời. Nhu cầu bứt phá bên cạnh nếp cũ an phận thủ thường đã thôi thúc tuổi trẻ Huế dấn thân đi tìm cái mới.

Người con trai, rồi đàn ông, Huế thường có một cái nhìn rõ nét và khắt khe lẫn tự hào về mình. Nhưng lại có cái nhìn mơ hồ và dễ dãi lẫn hoài nghi về người. Tâm lý vọng ngã (egoism) này là gốc rẽ của sự thành công bước đầu đối với các phong trào quần chúng nổi dậy chống áp bức và quyền lực thống trị. Thế nhưng, đấy cũng là nguyên nhân của hiện tượng “buông tay cho người khác cầm cương” ngay sau khi đợt gió đầu mùa của các cao trào phản kháng hay nổi dậy đã đi qua. Lịch sử cận đại với các biến cố từ Thất thủ Kinh đô, phong trào Cần Vương, kháng chiến chống Pháp, Phật giáo xuống đường, sinh viên tranh đấu… đã nói lên điều này.

Kẻ sĩ cả nước ngày xưa “tiến vi quan, thối vi sư”; nhưng riêng đàn ông con trai Huế thì bao đời qua vẫn “tiến vi kẻ sĩ, thối vi… nghệ sĩ”!

Xin tạm gác qua một bên những tiếng vọng xập xòe và những màu sắc lập lòe của những màn ảo thuật chính trị, để lạm bàn một chút về nghệ thuật… con trai đàn ông xứ Huế.

Những Nguyễn Thuyên, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Thảo Am Nguyễn Khoa Vy, Ưng Bình Thúc Giạ Thị… tiền bối. Những Phan Văn Dật, Bửu Kế, Văn Giảng Thông Đạt, Ngô Ganh, Phùng Quán, Võ Đình Cường, Lê Tuyên… thời cận đại. Và những Trịnh Công Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Bửu Chỉ, Nguyễn Đính Trần Vàng Sao… thời đương đại hầu như đều xuất thân là những nhà giáo – nhà giáo vương phủ hay nhà giáo đại chúng thì cũng là thầy dạy học mà thôi. Thế nhưng cái khung nhà giáo với lớp học, bảng đen và bục giảng là những chiếc lồng bé tí xíu, làm sao nhốt được những tâm hồn bão nổi ấy. Những con người mang bản chất dậy sóng đã lăn xả vào cuộc đời theo một nhịp độ “bằng - trắc” khá giống nhau. Khởi đầu là những bước chân dè dặt tầm sư học đạo. Tiếp theo là bước đi cẩn trọng tiến lên bục giảng. Nhưng sách vở thánh hiền và bụi phấn bay bay làm sao ngăn được những cơn lũ thời cuộc theo chớp bể mưa nguồn từ Tây, từ Mỹ, từ biển Đông, từ đồng hoang, từ rừng sâu… không ngớt ùa vào rủ rê những chàng mày râu Huế ấy ra đi. Đi… xuống đường, đi lên núi, đi ra đấu trường, đi vào nhà ngục, đi viễn xứ tha hương hay đi là ly biệt với chính mình cũng đều là sự thể hiện trực tiếp hay gián tiếp của sự nổi loạn. Sự nổi loạn ấy có khi thực như những tô bún bò, cơm hến trên đường hay có lúc réo gọi vô hình vô tướng mà Lê Tuyên gọi là “tâm thức lãng mạng của kẻ bị lưu đày”. Hương vị lãng mạn ấy khi đi vào đời thường đã nhen nhóm thành tâm lý yêu nước lãng mạn, chính trị lãng mạn. Nhưng nếu đi vào nghệ thuật sẽ chuyển hóa thành sức bật khai phá nghệ thuật. Phải chăng đây là điều lý giải về hiện tượng những nghệ sĩ Huế đã thành danh hầu hết là những nghệ sĩ “vô sư tự ngộ”. Nghĩa là đi vào những nẻo đường khai phá và sáng tác nghệ thuật tinh chuyên nhất như cầm, kỳ, thi, văn, nhạc, họa… một cách tự nhiên gần như chín muồi và tự phát chứ không qua trường lớp đào tạo chuyên môn nào cả.

Toni Morrison, nữ văn sĩ Nobel da đen đầu tiên của Mỹ, trong một bài tham luận nói đến tác phẩm Mắt xanh tuyền (Bluest Eye; 1970) của bà, đã mô tả cái tâm thức lãng mạn ấy là một quá trình phản kháng mang tính nghệ thuật: “Phản kháng sự bất công áp bức, phản kháng thói đời chướng tai gai mắt và phản kháng luôn cả sự hèn yếu nhận chịu của chính mình. Vậy nên, người nghệ sĩ có thể là người ‘chung thân bất mãn’ nhưng cũng là kẻ trung thành với chính mình trước sự lay đổ không ngừng của ngoại cảnh và tha nhân.”

Trong hoàn cảnh Việt Nam, những dòng tự sự của Tiêu Dao Bảo Cự trong Mảnh trời xanh trên thung lũng cũng đã bày tỏ điều tương tự: “Từ trẻ đến giờ tôi đều luôn muốn sống như một người trung thực dù phải trả giá. Đó mới là điều quan trọng.” (trang 691)

Vâng, đó mới là điều quan trọng! Bảo Cự vẫn còn lại giữa lòng đất nước, bạn bè và chính anh; trong khi nhiều nhân vật đồng thời còn sống nguyên tại chỗ mà lại… đã ra đi!


Napa Valley, mùa Lá xay Rượu vàng 2008

© 2008 talawas

Tưởng Dung

Theo Talawas

Tưởng Dung











Sao thiên thu không là...

(tưởng nhớ Nguyễn Tất Nhiên)

Khi gọi Minh Thủy để nhắc về buổi hẹn đi ăn trưa vào ngày Chúa nhật hôm sau, tôi nghe giọng Thủy thật nhẹ nhàng ở bên kia: “Dung à, mày đi với tao thăm mộ anh Nhiên trước khi đi ăn một chút được không? Hôm qua là giỗ của anh ấy đó, chắc lâu lắm rồi mày đâu có đi đến đó hả nhỏ?”. Tôi giật mình như vừa được nhắc nhớ đến một người bạn thân, một kỷ niệm quen thuộc, rất gần gũi, rất tự nhiên mà mình đã có và vô tình quên khuấy đi mất. Ừ nhỉ, đời sống bên này với những bận rộn, hối hả từng ngày, đôi khi có ai tình cờ nhắc đến những người bạn nào đó đã có một thời thân thiết, giao thiệp qua lại với nhau thật lâu bỗng dưng “mất tích” không gặp nữa vì hoàn cảnh, công việc hoặc dọn đi xa, tôi vẫn mừng rỡ, háo hức, chờ được nghe thêm tin tức hoặc gặp lại. Huống chi là anh Nhiên, vừa là người anh, vừa là người bạn đời quá cố của đứa bạn thân thiết nhất của tôi từ dạo còn đi học cho đến giờ. Trong phút chốc, hình ảnh cao gầy, lỏng khỏng với hai cánh tay dài quá khổ hay quơ quơ để diễn tả và gương mặt cứ… nhăn nhó, bậm môi, mỗi khi nói chuyện với tôi của anh hiện ra, rõ ràng trong trí nhớ. Anh Nhiên và tôi đã có một thời gian thân thiết và cũng có một thời gian… thù nhau quá sức. Nhớ tới mối quan hệ rất ngộ nghĩnh, đầy “hỉ, nộ, ái, ố” của chúng tôi trong chuỗi ngày xa xưa ấy, tôi thật không biết phải vui hay buồn. Thời gian quả thật đáng sợ, mới đó mà anh mất đã 15 năm rồi. Lần này đến thăm anh, chắc chắn tôi có rất nhiều điều để nhắc nhớ.

Khi Thủy bắt đầu quẹo xe vào cổng của nghĩa trang Peek Family, cái âm thanh náo động ngoài đường phố bỗng dưng chìm dần, rồi tắt hẳn. Trước mặt tôi là con đường nhỏ vòng theo những vòm cây rợp bóng mát, thinh lặng, nhẹ nhàng… Mặt đất là những thảm cỏ xanh mượt mà được chăm sóc cẩn thận. Ngồi cạnh Thủy đang chầm chậm lái xe đến chỗ an nghỉ của anh Nhiên, tôi thong dong ngắm nhìn một khoảng không gian an bình, thoát tục đang trải rộng quanh mình, chỉ có tiếng gió rì rào trên các tầng cây, tiếng xào xạc của những chiếc lá khô đang uốn mình trên mặt đất khi bánh xe nghiến lên. Không khí yên lành, thanh tịnh dễ khiến lòng người lắng đọng. Những lo buồn, ray rứt của đời sống, của những ngày trước kia đã có bỗng dưng chìm xuống, ngủ yên. Tôi như lịm người đi với cái cảm xúc lạ lùng chợt ùa tới, cái cảm giác mà từ lâu tôi không có được… bình yên và thanh thản. Không thấy bóng người lai vãng, buổi trưa cuối tuần thế mà vắng vẻ quá! Dường như những người nằm đây đã bị đời lãng quên? Lâu lắm rồi từ ngày tiễn anh ra đến phần mộ trong nghĩa trang này, tôi chưa bao giờ có dịp để trở lại viếng thăm, kể ra là cũng quá tệ! Nhưng biết làm sao hơn? Thôi thì nhờ Thủy hôm nay cho tôi cơ hội để được thăm lại người mà tôi đã từng xem như một người anh và có lúc đã xem nhau như “kẻ thù” (như tôi và anh đã từng nghĩ về nhau sau một trận cãi vã kịch liệt).

Tiếng Thủy kéo tôi trở về với thực tại:

“Chịu khó đi bộ một chút nha nhỏ, mộ anh Nhiên ở trong kia, không cho xe vô được.”

Tôi cười:

“Ừ thì có dịp đi excercise một chút, có sao đâu!”

Tôi xuống xe với một tâm trạng nao nức, kích động như sắp sửa đi gặp lại người quen đã lâu rồi… thất lạc. Hai đứa chia nhau cầm bó hoa, nhang và hộp quẹt bắt đầu lần bước tìm bia mộ anh Nhiên. Nghĩa trang ở đây không choáng đầy mắt với những ngôi mộ xây cất đủ hình đủ kiểu, chằng chịt như ở Việt Nam. Các ngôi mộ ở Mỹ đều giống như nhau. Một khoảng đất cùng kích thước, nằm san sát, có hàng lối rõ ràng, tấm bia được đặt nằm phẳng phiu ngay trên mặt đất, vì thế cũng khó mà định hướng mộ của thân nhân mình nếu không biết trước.

Thủy nhắc tôi:

“Coi chừng đạp lên mộ người ta đó nha, có khi mộ cũ quá rồi mày không thấy rõ cái mặt bia đâu.”

“Ừ, tao biết mà.”

Tôi vừa đi vừa nhẩm đọc thử tên tuổi của những bia mộ gần bước chân mình nhất, có nhiều người chết thật trẻ, nằm bên cạnh những ông bà cụ tuổi thật cao. Nắng chói chang trên từng dòng chữ, trên những tấm ảnh đã phai màu với thời gian.

Chúng tôi dừng lại ở dưới một bóng cây với những tàn cao, to rộng, đầy bóng mát. Thủy nói:

“Đây rồi, mộ của anh Nhiên may là được nằm ở chỗ này, có bóng mát lại cũng gần chỗ có nước, thoáng và lý tưởng, chứ mộ của ông Mai Thảo ở đàng kia, trơ trụi, không có cây cối gì cả nắng nóng cả ngày, mày ơi!”

Tôi rảo mắt nhìn quanh, cố nhớ lại hình ảnh của mười mấy năm về trước. Cũng nơi này, gia đình, bạn bè, người thân của anh Nhiên có mặt đông đủ lúc hạ huyệt, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, mà lần đầu tiên tôi mới gặp mặt đã đứng ở đây đọc điếu văn, chia buồn, nhỏ lệ xót thương. Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều nhân vật nổi tiếng cùng một lúc như thế. Tôi nhớ là mình đã rất xúc động khi nghe ông Phạm Duy với mái tóc bạc trắng ngậm ngùi, từ tốn nhắc đến những kỷ niệm với anh Nhiên và những bài thơ mà ông đã phổ nhạc. Tôi nhớ ca sĩ Việt Dũng đứng ở góc kia và một số người nữa nhìn tôi với đôi mắt hiếu kỳ khi thấy Thủy cứ gục đầu vào vai tôi khóc nức nở. Chắc họ thắc mắc không biết tôi là ai và có quan hệ gì với gia đình người quá cố. Và nơi đây, mẹ anh là người cuối cùng sau khi xác thân anh đã thực sự được đặt yên dưới lòng đất lạnh, đã khóc than, hối tiếc về sự ra đi của đứa con mà đến bây giờ trước sự thương tiếc, quý mến của thân hữu, của mọi người đối với anh, bà mới nhận ra con mình quả là một “thiên tài” đích thực. Nơi đây, chỗ này đã chứng kiến giờ phút cuối cùng “nghĩa tử nghĩa tận” của anh đấy mà. Những cành hoa đã thay nhau rơi xuống, phủ đầy trên nắp áo quan, những giọt lệ đã cạn khô trên mắt người đưa tiễn. Anh đã thực sự đi vào cõi thiên thu. Nơi mà anh đã cảm nghiệm được và nói đến rất nhiều từ những bài thơ đầu tiên. Tôi nhớ sau tang lễ của anh, khi mọi người lần lượt ra về, tôi đã đứng trước mộ anh một hồi lâu, nhớ đến bài thơ “Thiên thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập “Thiên tai”, một trong những bài thơ mà tôi rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía:

“Sao thiên thu không là xa nhau?
nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập
và một con đường cúp điện rất lâu.

Sao thiên thu không là chôn sâu?
nên nắng xưa còn hôn mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng ngập
và một họ hàng khăn trắng buồn đau…

……………….

Sao thiên thu không là thiên thu
Nên những người yêu là những ngôi mồ
tôi đứng một mình trong nghĩa địa
và chắc không đành quên khổ đau!”

Quả thật, sau mọi linh đình đưa tiễn, anh đã ở lại một mình trong nghĩa trang này với những khổ đau, nghiệt ngã của cuộc đời đã được chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh, đã cùng anh đi vào tận chốn thiên thu!

Tôi lặng lẽ cắm hoa vào cái bình đã có sẵn ở trước mộ, Thủy đi lấy nước ở một cái vòi cách đấy vài mươi bước và trở về đổ đầy vào bình hoa, tôi ngạc nhiên nhìn Thủy tưới phần nước còn lại lên trên mặt tấm bia, nhưng ngay sau đó lòng lại xúc động, bùi ngùi khi thấy Thủy dùng cuộn giấy mang theo, từ tốn lau sạch đi những bụi cát đang phủ lờ mờ trên đó. Bia mộ anh là một phiến đá làm bằng lacquer đen bóng, sau những vệt lau của Thủy đã lại sáng như gương. Tấm ảnh của anh hiện ra thật rõ ràng ở trên góc trái cùng với phần đầu của bài thơ “Giữa trần gian tuyệt vọng” anh viết từ năm 1972 nằm ngay bên cạnh. Tôi ngồi xuống, đọc từng giòng thơ đã được viết với nét chữ khắc thật đẹp với lòng trân trọng pha lẫn xót xa:

“Ta phải khổ cho đời ta phải khổ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(Vì thượng đế từ lâu kiêu hãnh
Cầm trong tay sinh tử muôn loài.
Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
Thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)”

Cũng khá thân và lại rất thích thơ anh Nhiên, nên hầu hết các bài thơ của anh tôi đều biết và thuộc lòng (hoặc ít nhất cũng vài đoạn trong mỗi bài). Riêng bài này, khi tình cờ nghe lại, trích trong bài viết “Tìm ở sao trời” của Hoàng Mai Đạt đăng trong tạp chí Văn Học và được đọc một lần trên đài radio Little Saigon hồi tháng 6, tôi đã ngậm ngùi, chợt nhớ ra: anh Nhiên đã mất lâu lắm rồi! Nghe nhắc đến bài thơ đã buồn, giờ trông thấy, đọc lại càng buồn và thấm thía hơn! Anh làm thế nào mà có thể khẳng định rằng cuộc đời mình là “phải khổ”, “phải ê chề” và nhất là “phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định” từ năm mới vừa 20 tuổi?

Thủy vỗ nhẹ vai tôi, đưa mấy nén nhang và dặn dò:

“Mày khấn xong rồi cắm cho anh Nhiên vài cây, còn lại chừa để lát nữa đem cắm ở những ngôi mộ khác nha.”

Từ ngày qua Mỹ, thực sự tôi cũng rất ít, hay nói hẳn ra là không có dịp nào đi vào nghĩa trang thăm mộ người chết như thế này, trừ những lần đưa tiễn, cầu nguyện ở nhà quàn trước khi hạ huyệt, nên có Thủy nhắc nhở cũng đỡ phải lúng túng.

“Khấn gì đây? Liệu anh có còn quanh quẩn đâu đây để nghe tôi nói không?” Tôi với anh từ lúc mới quen biết đến khi anh mất đi, có lúc đã chuyện trò vui vẻ, đã “cãi vã” thật nhiều, có lúc lại không thèm nhìn mặt hoặc nói với nhau lời nào. Hơn nữa, tôi đã không gặp anh ít ra cũng gần ba năm trước khi anh mất, anh giận tôi đã không cho tin tức gì của Thủy, tôi giận anh đã đối xử với đứa bạn thân của tôi và là vợ con anh quá… hờ hững, vô tình! Và như thế chúng tôi cứ như là “ân đoạn nghĩa tuyệt” từ đó. Không ngờ, chỉ một thời gian sau, anh đã tự rời bỏ cuộc đời quá sớm và dễ dàng như những bài thơ anh đã viết vậy!

Tôi cầm mấy nén nhang, mắt đăm đăm nhìn vào di ảnh của anh, thì thầm những lời không chuẩn bị mà vẫn nói thật suông sẻ như là đang có anh trước mặt:

“Anh Nhiên à, chắc rằng ở chốn “miên trường, vĩnh cửu” nào đó, anh đã quên hết mọi thống khổ, lụy phiền của nhân gian, đã được hưởng sự an vui, cực lạc đời đời rồi. Mong anh cũng quên và tha thứ cho những gì anh em mình đã hiểu lầm, giận ghét nhau trong quá khứ. Hãy ngủ yên và thanh thản trong “cõi thơ” trên chốn thiên đàng của anh. Hãy phò trợ cho Thủy và các con anh, giữ gìn, nâng đỡ chúng để chúng khôn lớn, vững chãi, có sức mạnh, niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, đừng để chúng vấp ngã, trầy sướt và đau đớn nha anh.”

Mắt tôi bỗng nhòa đi với ý tưởng là tôi đã nói được điều mình muốn nói với anh mà trước kia đã không có dịp. Lời xin lỗi rất chân thành. Dù gì tôi, Thủy và anh cũng có cái “duyên” với nhau trong một khoảng đời dù không dài lắm nhưng cũng không thể gọi là ngắn ngủi. Và cứ thế, những hình ảnh xa xưa bỗng quay về trong ký ức thật nhanh như những đoạn phim rời vừa được ráp nối.

Tôi nhớ lần đầu tiên, lúc anh vào lớp tôi để giới thiệu tập thơ “Thiên tai”. Tôi đã ngạc nhiên vì không biết tại sao một nhân vật… tầm thường của trường mình, người vẫn có tiếng là “gàn”, thậm chí còn bị cho là “khùng” như anh mà lại biết… làm thơ và lại còn… dám in thơ đem bán nữa. Vì tò mò, tôi đã lật xem thử vài bài trong tập thơ và không ngờ bị lôi cuốn ngay với “Bài thấm mệt đầu tiên”, “Nên sầu khổ dịu dàng”, “Linh mục”, “Nên thời gian ấy ngùi trông”… tôi đọc say sưa, đọc mãi cho đến bài cuối cùng “Thiên thu”, và như người vừa nhận ra mình đang cầm một “báu vật” trên tay, không thể nào để mất, tôi mua ngay một quyển dù lúc đó giá tiền của tập thơ không phải là nhỏ đối với tuổi học trò lớp mười của tôi. Tôi đem về nhà đọc đi đọc lại mãi những bài thơ của anh, bắt đầu thán phục về “tài làm thơ”, về sự liên tưởng, lý luận để bày tỏ, diễn đạt tâm tình một cách thật đơn sơ, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc qua việc sử dụng từ ngữ mới lạ, độc đáo của anh. Những hình ảnh rất dung dị, bình thường của đời sống qua thơ anh bỗng trở thành đẹp đẽ, ý nghĩa hơn. Tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với sự so sánh của anh trong “Bài thấm mệt đầu tiên”:

“Tình mới lớn phải không em rất thích?
Cách tập tành nào cũng thật dễ thương
Thuở đầu đời chú bé soi gương
Và mê mải dĩ nhiên làm lạ.

Tình mới lớn phải không em rất lạ?
Cách tập tành nào cũng ngượng như nhau
Thuở đầu đời chú bé ôm phao
Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước.

Tình mới lớn phải không em rất mỏng?
Cách tập tành nào cũng dễ hư hao
Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao
Và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ…”

Cũng nhớ, trong tập “Thiên tai” anh viết chỉ có một câu thôi mà đã làm tôi sững sờ và có ấn tượng mạnh mẽ hơn về con người của anh là:

“Tôi không đủ kiên nhẫn để đọc hết một quyển truyện dài, vì truyện dài không thể đọc vội vã. Người chắc cũng không đủ kiên nhẫn để yêu tôi vì tôi còn dễ chán hơn truyện dài. Tôi là một kịch bản trường thiên!”

Anh đã tự thu mình lại, khiêm nhường đi, chọn cho mình con đường cam phận, chịu thua thiệt, hay dùng đó để xác định rõ về bản tính, về chủ năng của chính mình, một “thiên tài” không dễ ai hiểu biết và cảm thông?

Từ đó, anh được tôi xem như là một nhà thơ trong danh sách “thần tượng” của thơ với ngôn ngữ mới lạ. Sau, nhờ chị Duyên, nhân vật trong bài thơ “Khúc tình buồn”, được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Thà như giọt mưa”, tôi lại có “duyên văn nghệ” được anh cho mượn phụ bản “Duyên” trong tập thơ “Thiên tai” để làm bìa tập thơ “Tuyên ngôn 15” cho chính tôi và Ngọc Yến, một cô bạn cùng lớp. Thủy bị tôi rủ đi theo gặp anh mấy lần để lấy và trả tập bản kẽm, thì lại mắc vào một cái duyên khác “duyên nợ ba sinh” với anh sau này. Thật tình, lúc đó anh làm tôi rất cảm động vì thấy “nhà thơ lớn” mà sao lại dễ dãi với “đàn em nhỏ” như tôi mượn gì là được nấy. (Chắc tại nghe tôi khoe là “em nuôi” của chị Duyên?). Về sau, tôi còn… khám phá ra do gia đình có quan hệ dây mơ rễ má thế nào đó, mẹ của anh gọi ba tôi bằng cậu, tức là tôi tới vai “dì” của anh Nhiên lận. Chao ôi, thật là oai ghê!

Nhưng thú thật, anh có một cái tật mà tôi rất… kỵ là mỗi khi lỡ nói gì trái ý là anh chau mày, bậm môi, đôi mắt cúi gầm xuống, hai bàn tay chập vào nhau chống trước trán, lầm lì không nói gì hết cho đến lúc… bỏ đi. Có lúc tức quá, tôi bảo Thủy: “Ông này cứ làm như đang đóng kịch vậy đó mầy ơi!... thấy ghét!”. Thủy rất hiền, nhút nhát, ít nói, nên cô nàng chỉ cười lặng lẽ, không ý kiến. Cũng vì tính tình như vậy nên thư tình, quà cáp gì của anh Nhiên gửi cho Thủy sau này cũng một tay tôi chuyển giúp. Cứ tan trường, hai đứa đi bộ về nhà chỉ cần nhác thấy bóng chiếc Honda của anh Nhiên sắp lạng tới là Thủy đẩy tôi ra phía ngoài để nó đi bên trong, tránh nói chuyện hay nhận thư, quà từ anh. Vừa sợ vừa muốn cho xong, nên tôi cứ nhận đại rồi đưa qua cho Thủy ngay sau khi anh đã phóng xe đi mất. Thủy vừa nhận vừa phản đối nên tôi cũng không biết rõ cô nàng có… chịu chàng hay là không. Nhưng tôi thì thấy vui lắm vì nghĩ rằng mình đang làm chứng nhân cho một mối tình cũng lãng mạn quá đấy chứ. Cũng nhờ vậy mà có lần tôi được “ăn theo” với Thủy, lần đó, anh Nhiên rà xe cạnh tôi dúi nhanh một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc… bổ óc đó, một cho Dung, một cho Thủy, ráng uống để mà thức học bài thi”. Tôi đưa cho Thủy bọc thuốc, cảm động một chút, vui vui một chút, coi vậy mà anh chàng cũng… biết điệu quá đó chứ! Lúc ấy, anh Nhiên đã bắt đầu thân thiết với tôi, thỉnh thoảng cứ chạy xe đến nhà tôi đưa thư, kể lể mọi chuyện… Có một hôm, đang ngồi trong nhà tự dưng thấy anh chạy xe đạp xồng xộc tới, vừa dựng xe, vừa thở hào hồn kể cho tôi nghe chuyện “gây gổ” giữa anh với anh T., em của chị Duyên, mới vừa xảy ra ở quán cà phê gần nhà tôi. Câu chuyện bắt đầu từ bài viết “Hột mè” của anh đăng trên báo Văn thì phải? Anh nói: “Thằng T. nói anh viết bài này “chửi” chị nó độc quá, nên nó tức đòi đánh anh…”. Tôi có đọc qua bài đó nên cười an ủi: “Anh viết cũng nặng tay lắm chứ bộ. Anh T. tức là đúng rồi. Thôi ai biểu viết mà chọc giận người ta làm chi. Chửi người khác mà anh vui sao?” Trước khi ra về anh còn nói như thật: “Lần sau, anh không có nhịn đâu.” Tôi cười vì biết tính anh nói thì… dữ nhưng chẳng làm gì hại ai cả. Chắc cũng vì chuyện này mà thời gian sau anh đã viết “Bài tạ lỗi cùng người” có những câu thật cảm động:

“Năm năm trời… ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt người tình
Năm năm trời có nhục có vinh
Có chua, chát, ngọt, bùi, cay, đắng…
Có hai mái đầu chia nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn xuống vai em!
Năm năm trời… có một tên Duyên
Ta ca tụng rồi chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục màu sông
Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mỉm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
Nên tị hiềm nhen nhúm giữa ngây thơ
Nếu em còn chút đỉnh mộng mơ
Xin rộng lượng thứ dung người lỡ dại.”

Tôi dạo ấy cũng… hơi lo dùm cho Thủy, Thủy học rất giỏi, giỏi nhất trường, xinh xắn, tài năng toàn diện, ai cũng quí mến, còn cái ông nhà thơ này sao ngày nào cũng đón đường, tỏ tình, tỏ ý với Thủy mà làm thơ thì cứ thấy ca tụng hết cô này đến cô khác. Vậy thì thương thiệt hay giả đây?

Cho nên, đến khi Thủy năn nỉ nhờ tôi mang trả lại hết quà cáp, thư từ cho anh Nhiên, tôi đã… ngây thơ thương bạn, nhận lời mà có biết đâu tự mình đi đón nhận phong ba bão tố. Sau khi biết tôi mang mọi thứ đi trả giùm cho Thủy, anh Nhiên đã mắng tôi và đổ thừa tại tôi… xúi Thủy tuyệt tình với anh. Tôi tức điên lên và cãi với anh một trận tơi bời hoa lá. Anh giận tôi đến độ còn dọa sẽ viết một bài… chửi tôi trên báo để cho tôi biết tay anh. (May là chắc anh nghĩ lại, thấy “tội” của tôi còn nhẹ hoặc biết là không có tội gì hết, nên không có bài nào nêu đích danh tôi để… trả thù, trừ một câu trong bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” đã ví tôi là “quỷ sứ” mà sau này qua Thủy tôi mới biết. Đó là câu: “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân. Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ.” Chứ nếu không chắc tôi cũng đã được anh đưa vào… văn học sử bằng một ngõ… tối tăm rồi!). Từ đó, tôi với anh Nhiên bắt đầu một mối thù… không tên, và cứ mỗi khi Thủy nhắc tới anh Nhiên là tôi tha hồ mà… đay nghiến. Lúc này, tôi đã thực sự giận ghét anh Nhiên và muốn cho Thủy đừng thèm “mềm lòng” với cái anh chàng nghệ sĩ tài hoa mà gàn dở này nữa.

Nhưng khi đọc bài thơ“Thục nữ”, là bài đầu tiên anh Nhiên viết cho Thủy, với hình ảnh Thủy trong thơ và Thủy ngoài đời là một, rất thật, rất dễ nhận ra với tóc bính, nón lá, hài nhung, mảnh mai, nhẹ nhàng, vô cùng thục nữ đã làm tôi xúc động:

“Chiều em đi hai hàng bính tóc
Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà
Còn bao nhiêu dấu hài khuê các
Sao đành gieo xuống phố đời ta?

Chiều em đi nón lá che nghiêng
Sao đành che mất nụ cười duyên?
Mây vẫn chưa về gom bớt nắng
Trần ai đông lắm kẻ si tình.

Chiều em đi trong nắng trời tây
Bóng đổ lênh đênh – bóng đổ gầy
Bóng đổ gầy như ta ốm yếu
Đeo đẳng hoài theo tình không may

Chiều em đi bước ngại bước ngùng
Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung
Như sợ bay lên từng đóa bụi
Sao khách tài hoa nát cả lòng?

Chiều em vui quá thuở vàng son
Ta bỗng lang thang khắp ngả đường
Ta đi cho chết thời oanh liệt
Cho thấu một trời đau đớn riêng!”

Bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” là bài thứ hai anh đã viết gửi cho Thủy với những lời bày tỏ chân tình, nhưng đã khiến cho Thủy giận hờn, ấm ức nhờ tôi mang trả lại thư từ, quà tặng của anh và đã là nguyên nhân khiến tôi phải… rước họa vào thân. Đó là những câu:

“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta vẫn thèm hôn lên mắt tiểu thơ buồn
Ta vẫn thèm ăn năn những lúc đón đường
(Em khó chịu… mà thư nào em cũng nhận)”

Sau khi biết vì mình mà tôi và anh Nhiên đã không thèm nhìn mặt nhau nữa, thì Thủy ít nhắc nhở tới anh hơn và lặng thinh mỗi lần nghe tôi kể tội anh đã mắng nhiếc, sỉ vả tôi như thế nào. Anh Nhiên thì phải tự động tìm cách để… nối nhịp cầu tri âm với Thủy một mình vì không còn cái nhịp cầu mang tên… Dung nữa.

Mãi cho đến một buổi chiều kia, tan học về, Thủy báo cho tôi biết: “Ông Hải (tôi và Thủy vẫn quen gọi anh bằng tên thật là Hải, dù anh đã nổi tiếng và mọi người luôn gọi anh bằng tên Nguyễn Tất Nhiên) nói chiều thứ Sáu hàng tuần có chương trình giới thiệu nhạc mới ở radio, thứ Sáu này nhớ đón nghe vì sẽ có bài thơ “Hai năm tình lận đận” ổng làm cho tao được Phạm Duy phổ nhạc, hát lần đầu.” Tôi nhìn Thủy ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Ông này coi vậy mà cũng… khôn, biết cách giải mã “độc đáo” thiệt, như thế này thì Thủy có… chạy đàng trời.” Tôi tuy còn ấm ức vì… mối hận lòng, “oan Thị Kính” vẫn còn đầy ứ mỗi khi nhớ tới, nhưng cũng thấy vui và hãnh diện lây với bạn. “À há, như vậy mi đã bắt đầu được đi vào văn học sử rồi đó nha”. Cũng nhờ vậy, chiều thứ Sáu đó, tôi đã được thưởng thức trọn vẹn bài hát “Hai năm tình lận đận” với âm điệu nhẹ nhàng, buồn rầu đến tội nghiệp qua tiếng hát dễ thương, nồng nàn của Duy Quang:

“Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
Mùa đông hai đứa lạnh
Cùng thở dài như nhau.

Em không còn thắt bím
Nuôi dưỡng thời ngây thơ
Anh không còn luýnh quýnh
Giữa sân trường trao thư

Hai năm tình lận đận
Hai đứa đành xa nhau

Em vẫn còn mắt liếc
Anh vẫn còn nôn nao
Ngoài đường em bước chậm
Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.

Em bây giờ có lẽ
Toan tính chuyện lọc lừa
Anh bây giờ có lẽ
Xin làm người tình thua.
…………………………
Hai năm tình lận đận
Em đã già hơn xưa!”

Tôi đã bật cười khi nghe Thủy kể lại, hai câu cuối của bài thơ này đã làm… động lòng Lâm Diễm, một đứa bạn cùng lớp với chúng tôi, khi nó đọc thấy bài thơ đăng trên báo trước khi được phổ nhạc. Diễm vào lớp báo ngay với Thủy: “Thủy ơi, ông Hải làm thơ chê mày… già”.

Sau khi nghe bài hát này tôi thầm nghĩ, Thủy đã không thể thoát khỏi lưới tình nữa rồi. Thủy vốn yêu thích thơ văn, cũng như tôi và số đông bạn bè cùng lứa lúc ấy, rất hâm mộ thơ Nguyễn Tất Nhiên, Thủy đã được làm “nàng thơ” của thi sĩ, nay lại được dòng nhạc của Phạm Duy đưa hình ảnh “thắt bím” của mình chắp cánh bay xa. Còn gì hơn! Nhưng chúng tôi không có thời giờ để hỏi han những chuyện vớ vẩn nào khác nữa. Tất cả thời gian còn lại là học thi, thi Tú tài II. Tôi quên bẵng đi chuyện tình của anh Nhiên và Thủy để lo học.

Rồi đến lúc lên Sài Gòn vào đại học, tôi và Thủy lại cùng ở trọ với nhau, chắc Thủy nghĩ là tôi còn giận anh Nhiên lắm, vì mỗi lần Thủy nhắc tới anh là cứ nghe tôi châm chọc: “Ông ấy là ai? Tưởng mình là nhà thơ lớn… ngon lắm hở?”. Không nhớ tôi có nói gì nặng hơn nữa không mà Thủy càng ngần ngại, dè dặt tránh nói về anh trước mặt tôi. Tôi học bên Văn khoa, Thủy học ở Đại học Vạn Hạnh, bên kia cầu Trương Minh Giảng. Bởi thế, bài “Chở em đi học trường đêm” có đoạn:

“Chở em đi học mưa, chiều
Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa
Mưa thánh thót, mưa ngân nga
(Hình như có bão băng qua thị thành)
……………………………………
Đèo nhau qua đoạn đời này
Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn...”

Tôi cứ tưởng là viết cho Thủy, nhưng sau này khi hỏi lại, Thủy nói: “Ổng viết cho… con nhỏ khác mày ơi!”. Tôi giật mình và cảm thấy bất mãn vì nghĩ rằng các ông văn thi sĩ chắc không chỉ có bốn ngăn tim, nên mới có thể chứa đựng được một lúc nhiều hình bóng đến như vậy! Bài thơ “Khởi tự mê cuồng” anh viết năm 74, mới là bài anh viết cho Thủy, nên vẫn thấy bóng dáng Thủy đâu đó, mặc dù lúc này Thủy và anh đã không còn liên lạc với nhau.

“Trời mưa, không lớn lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu!
Tình yêu, không đáng lắm
nhưng đủ làm… tiêu nhau!

Đường người, vui có chăng
ta trùng điệp u buồn
nhớ ai mà tóc rụng
ngóng ai muốn đục tròng.
…………………………
Đường người, đau có chăng
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bím
môi trinh non thích cười
Chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôi kệ tình trôi…”

Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi chia tay nhau, Thủy tiếp tục học và về làm việc ở Biên Hòa. Tôi thì lưu lạc đến Long Thành làm nghề “gõ đầu trẻ”. Công việc bận rộn nên chúng tôi cũng liên lạc ít hơn. Thủy và tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau trong những ngày cuối tuần khi tôi trở về nhà.

Tôi không biết rõ mối quan hệ của anh và Thủy bắt đầu lại từ lúc nào, mãi cho đến khoảng giữa năm 78, một hôm, Thủy đột ngột đến tìm tôi vào buổi trưa, chúng tôi kéo nhau lên lầu nói chuyện. Thủy ngần ngại, rào đón một lúc lâu mới báo tin là sắp đám hỏi với anh Nhiên. Thấy tôi lặng thinh, Thủy hỏi: “Mày bất ngờ không?... thất vọng không?”. Tôi biết Thủy vẫn còn nhớ “mối thù” của tôi với anh Nhiên lúc trước, nên cười và lắc đầu: “Chuyện cũ, chuyện nít nhỏ, tao quên rồi. Đừng nhắc tới nữa. Vậy là “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” rồi. Mày có cần gì tới tao không?” Thủy thở phào nhẹ nhõm: “Có chứ, mời mày tới dự đám hỏi, nhớ tới sớm sớm để phụ tao nha nhỏ.” Không hiểu sao lúc đó, tôi vừa mừng lại vừa lo cho Thủy, Thủy dịu dàng, yếu đuối và sống “kín cổng cao tường” trong mái ấm của đại gia đình từ bé, còn anh Nhiên, đời sống luôn quay quắt với dư luận khắc nghiệt và lang bạt kỳ hồ, như trong thơ anh vẫn thường khẳng định: “Em có một đời rong xanh mơ đá. Tôi có ngàn năm say khước hận thù” (Bài thấm mệt đầu tiên) hay “Chim trong tổ biết chi đời giông bão. Em con cưng nào biết tuổi lưu đày”“Em gia giáo phải lòng anh lang bạt” (Uyên ương). Liệu Thủy sẽ được bình yên, hạnh phúc hay sẽ lao đao với sóng gió cuộc đời?

Thời gian này, bài “Nụ hôn đầu” với những câu:

“Gian truân lắm mới hôn người
Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau.
………………………………
Hôn em chấn động đầu đời.
Chiếc hôn tình lớn kiếp người đôi giây.”

Và “Cuối tháng Tám”, không hiểu đã cảm nhận được điều gì mà cả hai bài thơ của anh viết cho Thủy đầy những lời ăn năn, thống hối:

“Khổ đau oằn nặng sinh thời
yêu ai tôi chỉ có lời thở than,
có môi hôn trộm vội vàng
khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu
nụ cười giữ được bao lâu
nhân sinh là một dòng sầu miên man
sông dài rồi cũng chia phân
tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi
Tôi đam mê siết thân người
hay đâu tảng đá đeo đời trăm năm.
Em gầy guộc, em mong manh
Em chưa đủ sức long đong cùng chàng
Em ngây thơ đến rỡ ràng
Em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung
Em tội nghiệp, em tủi thân
Em chưa tự chủ kíp nhăn lệ tràn
Lôi người té sấp gian nan
Lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi.”

Đến ngày đám hỏi của Thủy và anh Nhiên, tôi mới biết chỉ có tôi là đứa bạn duy nhất được Thủy mời trong đám đông của gia đình hai họ.

Lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm không nhìn mặt nhau ở đám hỏi, được coi như là một nhịp cầu nối lại mối quan hệ giữa tôi và anh Nhiên. Anh tỏ vẻ quí mến tôi hơn và thỉnh thoảng hay ghé nhà tôi để hỏi thăm hoặc nhắn tin cho Thủy

Có một chuyện khiến tôi cảm động và nhớ mãi là một buổi trưa vừa từ trường về nhà trọ sau mấy giờ dạy, thay chiếc áo dài xong thì nghe tiếng gõ cửa và sau đó là giọng của Thảo, chị bạn cùng nhà gọi: “Dung ơi, có ai kiếm kìa.” Nhà chúng tôi ở là một căn biệt thự khá lớn của một chị bạn dạy cùng trường, mấy ngày trước 30 tháng 4, chợ Long Thành bị pháo kích, sập gần hết, nhà chị cạnh đó nên cũng bị một quả ngay vào giữa, căn nhà như bị cắt ra làm đôi. Phần phía trước chỉ còn cái mặt tiền và khung cửa sắt là nguyên vẹn, hai phòng phía sau, sâu vào trong, nơi không bị hề hấn gì, là nơi mà nhóm giáo viên chúng tôi chia nhau ở, được nối bằng một khoảnh đất nhỏ mà trước đó dùng để trồng hoa kiểng và một cánh cửa lớn bằng gỗ. Tôi vội chạy lên và ngạc nhiên khi thấy anh Nhiên đứng sừng sững ngay khung cửa với chiếc xe đạp bên cạnh. Anh nhìn tôi đang ngó anh trân trối, nhe răng cười hỏi: “Sao? không mời vô à?” Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của anh. “Ủa, anh đi đâu đây? Sao biết Dung ở chỗ này?” Anh dựng xe sang bên, một tay giở nón, một tay lau mồ hôi trán và nói: “Nghe Thủy nói Dung dạy học ở trường Long Thành, nhà anh có rẫy cũng gần đây, sẵn đi ngang ghé vô trường hỏi, họ nói Dung mới đi về, rồi chỉ nhà cho anh đó chứ.” Tôi mời anh vô trong uống nước và giới thiệu với chị Thảo: “Anh này là thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đó!”. Chị Thảo tròn xoe mắt nhìn anh: “Vậy hả? Trời ơi, nghe tiếng quá chừng mà bây giờ mới gặp đó nha.” Anh Nhiên chỉ cười và không nói năng gì. Hỏi thăm nhau được một chút, anh từ giã ra về còn hỏi tôi: “Dung có cần nhắn gì về nhà không? Anh ghé qua nhắn cho”. Bỗng dưng tôi nhớ tới chục ký gạo vừa đươc lãnh sáng nay ở trường theo tiêu chuẩn công nhân viên nhà nước, và tôi đã làm một việc vô cùng tệ hại mà sau này lúc kể cho Thủy nghe hoặc nhớ tới, tôi vẫn còn áy náy và rất xấu hổ là : “Anh Hải chở dùm bao gạo này ghé qua nhà đưa cho má Dung được hông?”. Tôi thấy đôi mày anh cau lại, trán nhăn nhăn, môi mím chặt, nhưng cũng gật đầu: “Ừ, thì để anh chở cho”. Tôi giúp anh khuân bọc gạo lên để phía sau “boọc ba ga”, cột dây cẩn thận, cám ơn anh, chào tạm biệt và… tỉnh bơ, mãi cho đến khi đưa anh ra tới cửa ngoài thấy anh bắt đầu gò lưng trên chiếc xe đạp tôi mới giật mình. Tiếng chị Thảo phía sau tôi vang lên: “Trời ơi, mày ác quá trời đi người ta tới thăm mà còn bắt chở bao gạo về dùm nữa, nặng lắm đó, một chút lên tới dốc 47 làm sao ổng lên nổi!” (Dốc 47 là cái dốc rất cao ở gần ngã ba Thái Lan giữa đường đi Biên Hòa và Long Thành). Tôi mới bắt đầu hối hận và thấy mình…vô duyên quá đỗi!

Cứ tưởng mọi việc sẽ được tiến hành êm đẹp như đã định, Thủy và anh Nhiên sẽ làm đám cưới cuối năm đó. Nhưng không ngờ, bao ngang trái cuộc đời không hẹn mà cứ đến đe dọa cho mối tình của hai người, lý do từ việc có nhiều dư luận về anh Nhiên đã đến tai gia đình Thủy. Lúc này, tôi đã đổi về Biên Hòa để đi học lại, nên Thủy thường gặp tôi sau những giờ làm việc, tâm sự, thở than về những ngăn cấm của gia đình và đôi khi nhờ tôi làm “bình phong” để Thủy và anh Nhiên hẹn hò nhau.

Bài “1978 ở Việt Nam” chắc anh đã viết trong lúc tâm trạng u uất, chán chường về sự đổi thay của xã hội lẫn hoàn cảnh riêng tư của chính mình:

“Phu thê nếu phải nợ rồi
Thì tôi đâu ngại ngỏ lời yêu em

Như con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương.
…………………………………

Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Tôi, quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương khóc tình!

Rồi đến bài thơ “Uyên ương” với những câu thật não lòng:

“Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa.
………………………………..
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc

Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước
Để chiều về nhẹ thấm thía gian nan!
Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẽ đôi bài tình man mác.

Chim trong tổ biết chi đời giông bão
Em con cưng nào biết buổi lưu đày…”

Nhưng rốt cuộc, Thủy đã quyết định cùng với gia đình anh Nhiên rời khỏi Việt Nam cuối năm 78, sau những tháng ngày dài nổi trôi cùng vận nước và cả vận mệnh của chính mình. Một năm sau, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên có kèm theo hai tấm hình của Thủy và anh Nhiên chụp ở vườn Luxembourg trong mùa thu, đầy lá vàng, lãng mạn, tuyệt đẹp, mới biết là hai người đã định cư ở Pháp. Nhờ địa chỉ đó nên tháng tư năm 81, sang đến đảo Ga Lăng, Indo, tôi đã liên lạc được với Thủy. Không ngờ, Thủy vẫn nhớ và gửi quyển “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài từ tập “Thiên tai” và những bài thơ sáng tác từ 1970 đến 1980, đã được ấn hành lại ở Pháp, làm quà sinh nhật cho tôi trên đảo. Tập thơ này quả là một món quà vô cùng quí báu lúc bấy giờ đối với bọn chúng tôi gồm một đám thanh niên cùng mê thơ Nguyễn Tất Nhiên, cả mấy tháng trời, đêm nào cũng mang ra vừa đọc vừa bàn luận, thật sôi nổi, hào hứng.

Đến tháng mười, tôi được các em bảo lãnh sang Mỹ, về ở Missouri. Anh Nhiên và Thủy cũng đã dọn về Cali từ tháng tư.

Chúng tôi thư từ, điện thoại thăm hỏi nhau nhưng vẫn chưa gặp mặt, Thủy và tôi cùng bận rộn với đời sống mới mà lại ở xa nhau, nên ngay cả đám cưới tôi tổ chức ở Utah, Thủy cũng không có dịp sang dự. Cho mãi đến hôm tôi sinh cô con gái đầu lòng khoảng một tuần, thì Thủy gọi phone báo tin là sẽ đi xe bus Greyhound sang thăm tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại bạn sau 6 năm xa cách. Thủy không thay đổi tí nào, vẫn dáng dấp học trò, vẫn gầy gầy, nhỏ nhắn, gương mặt, nụ cười vẫn hệt như thời còn đi học, mặc dù bây giờ đã có thêm hai chú nhóc, Tí Anh đã ba tuổi và Tí Em sắp lên hai, lúc nào cũng quấn bên chân mẹ. Trong dịp này, Thủy đã kể cho tôi nghe hết về cuộc sống từ ngày rời Việt Nam, với những ngày đầu vất vả nhưng hạnh phúc ở Pháp, đến những khi sóng gió vì đời sống nghệ sĩ lang bạt, bất đắc chí của anh Nhiên ở Mỹ, cả đến những cay đắng mà Thủy phải chịu đựng để chu toàn cái hình ảnh của “một người vợ, một người đàn bà thuần túy Á Đông, chỉ biết phục tùng chồng và tuyệt đối không nên để ý hoặc thắc mắc gì về những quan hệ công việc bên ngoài của chồng.” mà anh Nhiên vẫn luôn nhắc nhở Thủy mỗi khi có chuyện bất đồng. Tôi ngạc nhiên và không ngờ đứa bạn với bề ngoài yếu đuối như Thủy mà có thể chịu đựng được ngần ấy thứ đau khổ, trắc trở trong cuộc đời làm vợ của nhà thơ. Thủy nói lần này, sau khi trở về, hai người sẽ quyết định chia tay. Thoạt tiên, tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai đứa bé đang hồn nhiên, quấn quýt bên Thủy, tôi giận anh Nhiên quá sức, tại sao có mái gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc thế này mà anh không chịu gìn giữ? Tôi muốn an ủi Thủy, nhưng an ủi thế nào khi tôi cũng không biết phải xử trí làm sao trong hoàn cảnh ấy. Thủy định là sẽ ở chơi với tôi đến hai tuần nhưng chỉ một tuần Thủy đã đổi vé về lại Cali, sau những cú phone dồn dập của anh Nhiên. Mấy hôm sau, Thủy gọi để báo tin là sóng gió đã tạm dừng, dù không biết là chàng sẽ giữ lời hứa đến bao lâu. Tôi mừng cho Thủy và thầm cầu nguyện cho cái tổ ấm của Thủy sẽ bình yên, sáng sủa hơn sau cơn bão tố vừa qua.

Năm 86, gia đình tôi dọn về Cali, căn nhà nhỏ của chúng tôi ở Gardena, thỉnh thoảng đón tiếp Thủy và hai cậu con trai đến chơi, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy anh Nhiên đi cùng. Thủy tâm sự: “Tao chỉ là một người đàn bà bình thường, mơ có một mái ấm gia đình rất bình thường như những người đàn bà khác, nhưng với tao sao nó khó khăn, xa vời quá mày ơi!”. Nghe Thủy nói, tôi càng thấm thía hơn ý nghĩa của cái thuyết “hồng nhan bạc phận”, của “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, càng thấy xót xa và thương bạn hơn. Có lúc, tôi đã phải nói với Thủy: “Tao thì chỉ biết “yêu thơ” thôi chứ không có “can đảm” để “yêu nhà thơ” như mày, sao mà khổ quá đi!”

Từ lúc sang Mỹ dù đã xuất bản được tập thơ “Chuông mơ” (1987), “Tâm Dung” (1989) và cả việc sáng tác nhạc để ra đời băng nhạc “Tình khúc Nguyễn Tất Nhiên” nữa, nhưng anh vẫn là một người “bất đắc chí”, cay đắng với cuộc đời, hờ hững với trách nhiệm gia đình và đó có phải là nguyên nhân khiến anh trở thành một con người khác, một hình ảnh bất toàn hơn trong đời sống gia đình chăng?

Có lẽ vì biết quá nhiều về những bất hạnh từ đầu của hai chữ “nợ duyên” giữa anh Nhiên và Thủy, nên tôi đã đứng về phía bạn khi Thủy dứt khoát đoạn tuyệt với những khổ đau, oan nghiệt của quá khứ, hiện tại và có thể sẽ mãi còn tiếp diễn ở tương lai để chọn một cuộc sống bình an hơn cho Thủy và nhất là hai đứa con, nên tôi đã lặng thinh khi anh Nhiên gọi tôi để hỏi về tung tích của Thủy. Và đó là lần thứ hai, tôi lại bị anh mắng nhiếc thậm tệ, bằng những lời nhắn nặng nề trên máy answering. Lúc đó, tôi nghĩ, cứ để cho anh nghiền ngẫm, rồi tỉnh thức, nhận ra và biết quí báu những gì mình đã có, ân cần với đời sống và trách nhiệm hơn để có thể định hướng lại tương lai của mình. Nhưng không ngờ, anh đã quá yếu đuối và dễ tuyệt vọng đến độ phải chọn sự kết thúc bi thảm đến vậy! Lúc nghe tin anh mất, là lúc tôi đang trong giờ lunch ở một hãng điện tử. Sửng sốt, kinh ngạc… tôi nuốt không trôi miếng cơm còn đang nhai dở trong miệng. Tôi muốn về nhà ngay để gọi cho Thủy…

Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, mới đó mà đã mười mấy năm. Cuộc sống vẫn nối tiếp với những định mệnh đã được an bày. Các con anh nay đã khôn lớn, trưởng thành. Thủy đã tìm được bờ bến bình yên và đang có một đời sống hôn nhân hạnh phúc, điều mà trước kia tưởng chừng sẽ không bao giờ có được.

Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh, thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai, nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi. Có những điều khi còn sống chúng ta chưa có dịp phân trần, tỏ bày cho hết thì đến lúc lìa đời, cũng xin được có cơ hội để hòa giải, thứ tha. Chỉ tiếc một điều là những câu thơ anh viết lúc còn trẻ, khi đọc lên cứ tưởng sẽ là “lá bùa hộ mạng” cho anh, đã không nâng đỡ, vực dậy anh trước khi anh quyết định đi về một đời sống khác:

“Nếu vì em mà thiên tài chán sống
thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.

(Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, nhân ngày giỗ thứ 15 của anh, tháng Tám, 2008)

Nguồn: Hợp Lưu, California, Hoa Kỳ, số 101, tháng 7&8 /2008. Đăng lại trên talawas với sự đồng ý của tác giả.

Tưởng Dung sinh năm 1955 tại Biên Hòa. Sang Mỹ năm 1981. Hiện sống và làm việc tại Los Angeles, California. Cộng tác với các tạp chí Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Phụ Nữ Diễn Đàn, nhohue.org và ngo-quyen.org.

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2008

Đỗ Lai Thúy và trường phái “luộc văn”

Theo Talawas

9.10.2008

Nguyễn Tôn Hiệt

Đỗ Lai Thúy và trường phái “luộc văn”

Đọc bài “Cũng chuyện vay mượn” của Trần Đình Hoà, tôi có mấy ý nghĩ sau đây:

Inrasara vay mượn một vài ý tưởng của Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc-Tuấn và có ghi xuất xứ vào sách tiểu luận. Ông Bùi Bụi không thấy xuất xứ khi đọc bài báo của Inrasara trên mạng, thì Inrasara đã minh giải rồi. Chuyện vậy là rõ ràng, êm đẹp.

Nhưng Đỗ Lai Thúy thì quả là theo một trường phái khác hoàn toàn. Tôi tạm gọi đó là trường phái “luộc văn”. Giống như “luộc xe” vậy. Luộc xe Dream thành xe Trung Quốc là một trường phái đang thịnh hành ở Việt Nam.

*


Tôi trang trọng gọi là “trường phái” vì trước đây Đỗ Lai Thúy cũng đã nổi danh về chuyện “luộc văn” rồi. Có một dạo văn đàn đã lao xao về chuyện Đỗ Lai Thúy luộc văn ông Lê Huy Oanh để viết cuốn Con mắt thơ. Nhưng quả là lúc ấy Đỗ Lai Thúy “luộc” chưa rành nên các món còn sống nhăn, lộ mánh khá rõ. Bây giờ ngón nghề đã cao, nên ông “luộc” ông Nguyễn Hưng Quốc thật là khéo. Xem qua cứ ngỡ “tư tưởng nhớn gặp nhau”. Rất đáng phục.

Bây giờ, tôi xin trích lại đây một đoạn trong bài “Khắc vía tiến sĩ giấy“ do Vietimes phỏng vấn ông Nguyễn Hoà. Trong đó, Nguyễn Hoà có kể về vụ “Con mắt thơ” của Đỗ Lai Thúy như sau. Mời bạn đọc thưởng thức:

NH: Thì như quyển của Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ là cuốn ăn cắp kinh hoàng. Mà 7 năm sau Chu Văn Sơn mới lên tiếng đấy. Xét về bình thơ, Chu Văn Sơn là một trong những người đứng đầu ở Việt Nam hiện nay. Anh ấy đọc nhiều nên biết nguồn gốc những tài liệu Đỗ Lai Thúy “thuổng” là ở đâu.

Hồi ấy chưa được nghỉ hai ngày như bây giờ. Hội Nhà văn họp vào thứ Bảy để xét giải. Anh Nguyên Ngọc bảo mọi người về nghỉ Chủ nhật và cân nhắc kỹ, sáng thứ hai bỏ phiếu. Chiều thứ Bảy, tôi nghe cái tin sắp bỏ phiếu và trong đó có Con mắt thơ. Tôi bảo Chu Văn Sơn cùng đến chỗ anh Nguyên Ngọc, hai thằng đi bằng cái xe Babetta cổ lỗ sĩ của tôi.

Đến nhà Nguyên Ngọc, tôi lấy cuốn của Đỗ Lai Thúy ra (khi đó là cuốn duy nhất về lý luận - phê bình có khả năng đoạt giải) và trình bày: Bọn em chẳng phải hội viên nhưng bọn em ra gặp anh là vì Hội. Ông Ngọc hỏi: Làm sao? Tôi giở cuốn sách và nói: Đây là cuốn ăn cắp. Ông hỏi tiếp: Ăn cắp của ai? Lúc ấy tôi mới lôi ra một loạt tên tuổi mà ông Ngọc cũng quý mến. Ông Ngọc bảo: Sao lại có chuyện đó, ông Đặng Tiến còn viết bài ca ngợi cơ mà? Tôi bảo: Ông Tiến viết cách đây bao nhiêu năm, có thể đã quên rồi. Hoặc có thể người ta cứ để trao giải rồi mới “nện” cho xấu hổ thì sao? Tình huống xã hội có nhiều lắm. Nếu các anh vẫn bỏ phiếu thì em không phản đối, nhưng sẽ lên tiếng. Chúng em không phải phản đối Hội Nhà văn mà lên tiếng để bảo vệ giới tri thức trong nước!

Anh Ngọc lại hỏi: Chú cho dẫn chứng đi. Tôi bảo Chu Văn Sơn: Bây giờ tôi cầm quyển của Đỗ Lai Thúy, Sơn cầm cuốn của Lê Huy Oanh, hai thằng cùng “song ca” cho anh ấy nghe nhé!

Tôi và Sơn đọc được nửa trang. Nguyên Ngọc giật mình hỏi: Thế có ngoặc kép không? Tôi nói: Nếu có ngoặc kép thì chúng em đến gặp anh làm gì?

Rồi ông Thúy cũng đến nhà Chu Văn Sơn để nói khó, Sơn không công bố chuyện đó nữa. Thế mà 7 năm sau, ông Thúy vẫn tiếp tục tái bản mấy lần, không sửa chữa, bất chấp thiện chí của đồng nghiệp. Đến năm 2002, tôi phải thốt lên với Chu Văn Sơn: Thôi đến mức này thì không thể nào im lặng được nữa. Ông ấy khinh bọn mình quá. Ông ấy lợi dụng sự tử tế của anh em, vì tôi vẫn nghĩ với những gì ông Thúy đã làm được thì việc gì phải đi ăn cắp. Dù sao ông Thúy cũng có tên tuổi rồi.

PV: Tại sao Đỗ Lai Thúy lại làm thế?

NH: Chẳng biết được.


Thế đấy. Đáng phục chưa!

eVan giới thiệu bài của ông Đỗ Lai Thúy: “Phê bình văn học là gì?” là tiểu luận mới nhất và tâm đắc của Đỗ Lai Thúy. Tác giả đã âm thầm viết nó trong năm 2003...”

Khổ quá. Cuốn sách Văn học Việt Nam từ điểm nhìn H(ậu H)iện đại của ông Nguyễn Hưng Quốc đã xuất bản từ năm 2000. Không âm thầm tí nào. Chỉ có kẻ “luộc” thì mới “âm thầm”.

*


Nói cho ngay, tôi không ngạc nhiên chút nào khi đọc bài “Cũng chuyện vay mượn” của Trần Đình Hòa bởi vì cách đây mấy năm, giống như Trần Đình Hoà, tôi cũng đã tình cờ phát hiện trường hợp Đỗ Lai Thúy “luộc văn” của Nguyễn Hưng Quốc và cả trường hợp Đỗ Lai Thúy “luộc văn” của Nguyễn Văn Trung, một nhà nghiên cứu ở Sài Gòn trước đây. Sau khi phát hiện, tôi có khởi sự viết một bài để trình bày những điều ấy trước công luận, nhưng viết chưa xong thì lại lười biếng và bận bịu, đành bỏ dở, chỉ thỉnh thoảng đem ra kể cho các bạn văn nghe chơi. Từ đó đến nay tôi cũng không thấy ai lên tiếng. Nay nhân đã có bài của Trần Đình Hòa, tôi xin viết thêm mấy đoạn về trường hợp Đỗ Lai Thúy “luộc văn” của Nguyễn Văn Trung.

Trong bài “Phong cách học và phê bình văn học” của Ðỗ Lai Thúy đăng trên eVan vào ngày 11 tháng 3 năm 2005 [1] , Đỗ Lai Thúy ghi nhận và chứng minh rằng “những người đầu tiên [...] nhắc đến từ ‘phong cách’ trong phê bình văn học Việt Nam” là Nguyễn Lộc và Ðỗ Ðức Hiểu; “người đầu tiên thực hành phê bình phong cách học ở Việt Nam là Phan Ngọc”, và rồi ông “khiêm tốn” tự nhận ông là người có công đẩy việc phê bình phong cách học theo một hướng đi mới và lên một tầng cao mới qua hai tác phẩm Mắt thơHồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực.

Phải công nhận Đỗ Lai Thúy là một người dũng cảm khi ca ngợi mình một cách nồng nhiệt như vậy. Tuy nhiên những điều ông tự nhận là những phát hiện của ông lại là những ý tưởng được “luộc” lại từ ông Nguyễn Văn Trung.

Sự thật là trước Nguyễn Lộc và Đỗ Đức Hiểu rất lâu, trong cuốn Lược khảo văn học, tập 1, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1963 (Xuân Thu in lại tại Hoa Kỳ, 1990), Nguyễn Văn Trung đã dành một phần khá dài trong chương “Viết thế nào” để nói về phong cách (ông dùng chữ “bút pháp”) và vai trò của phong cách trong phê bình văn học.

Ông Nguyễn Văn Trung viết:

“Ở nơi những nhà văn danh tiếng, rất dễ dàng nhận ra lối văn đặc biệt của họ. Cho nên tìm hiểu một nhà văn là tìm hiểu cái đặc biệt, độc đáo trong lối nhìn đời của họ và tìm hiểu cái đặc biệt, độc đáo đó ngay trong lời văn, lối văn, hay nói một cách rộng hơn, trong bút pháp vì bút pháp gắn liền với con người của họ. Chúng tôi cho rằng một phê bình văn học chính đáng phải lấy chính tác phẩm làm khởi điểm và đứng vào quan điểm nghệ thuật của chính tác giả để rút ra những tiêu chuẩn của nghệ thuật.” “… Ði vào tác phẩm văn chương là phải bám sát vào bút pháp, vì tất cả ý nghĩa, tư tưởng, con người tác giả ta muốn tìm hiểu đều ở trong bút pháp.” (tr. 198).


Quan niệm ấy của ông Nguyễn Văn Trung hoàn toàn giống với những gì Đỗ Lai Thúy, hơn 40 năm sau, viết trong bài “Phong cách học và phê bình văn học”. Nó giống cả trong cách khai triển và chứng minh cho quan niệm ấy. Ông Nguyễn Văn Trung đã dành ra mấy trang để phân tích bài “Qua đèo Ngang” của bà huyện Thanh Quan và bài “Qua đèo Ba Dội” của Hồ Xuân Hương. Theo ông, thơ của hai nhà thơ nữ này có nhiều khác biệt, trong đó nét khác biệt căn bản và quan trọng nhất là “Thơ Xuân Hương dùng hình dung từ. Thơ Thanh Quan không dùng.” Nguyễn Văn Trung phân tích tiếp:

“Dùng hình dung từ nghĩa là chú ý tới sự vật và tin vào cái vẻ bề ngoài của nó để nhìn ngắm, lĩnh hội. Với Xuân Hương cái vẻ bề ngoài đó còn phải đặc sắc, phong phú, mãnh liệt nữa.”... “Cho nên những chữ Xuân Hương dùng là những chữ sống động, cựa quậy, bò lổm nhổm, không im lìm, chết cứng ở một chỗ hay yếu ớt, nhạt nhẽo. Những âm vần cũng oang oang sang sảng như của người ăn to nói lớn, lắm lúc như gắt lên, thét ra: chém cha, thây cha, cha kiếp, bá mẹ, bá ngọ.”

...

“Một bút pháp mô tả cuộc đời trong cái vẻ bề ngoài của nó bằng cách sử dụng những hình dung từ nói lên một thái độ yêu đời, lạc quan trước cuộc đời”...

“Ngược lại, trong thơ Thanh Quan, không hề thấy hình dung từ. Nhìn sự vật, bà chỉ kể tên mà không chú ý tới vẻ bề ngoài của nó; bà lãnh đạm với màu sắc, thanh âm, hình dáng của sự vật. Bà nói tới cỏ cây, hoa lá, núi, nhà, hoàng hôn, trời, nước, nhưng không xác định cây xanh hay lá vàng, hoặc trời đẹp, non cao. Bà không chú ý tới cái vẻ bề ngoài của sự vật, nên không tả nó và không chú ý vì không thèm buồn nhìn ngắm, không thích thú gì mà nhìn, không muốn hưởng thụ cuộc đời, vì cuộc đời chẳng có cái gì được đáng hưởng thụ.” (Rải rác từ trang 205 đến trang 211).


Xin thử so sánh những gì Nguyễn Văn Trung viết ở Sài Gòn đầu thập niên 1960 trích ở trên với những “phát hiện” độc đáo của Đỗ Lai Thúy vào đầu thế kỷ 21 dưới đây:

“Lấy khoảng 30 bài thơ (trong số hơn 50) được coi là đáng tin cậy hơn cả của Hồ Xuân Hương, rồi tiến hành thống kê tần số sử dụng các từ loại của nữ sĩ, tôi nhận thấy: thơ Hồ Xuân Hương sử dụng rất nhiều động từ chỉ hành động như xiên ngang, đâm toạc, tung hê, sương gieo, gió thốc...; những hình dung từ, chủ yếu là tính từ chỉ phẩm chất và trạng từ chỉ mức độ như cầu trắng phau phau, nước trong leo lẻo, cửa son đỏ loét, lún phún mọc, le te lách...; những từ vận mà gợi nghĩa như lênh, đênh, ghềnh, bềnh, tênh với vần ÊNH gợi lên sự bất ổn, dễ vỡ, mòm, lòm, khòm, khom, dòm với vần OM gợi tình trạng gò bó, bức bối...”


Sau đó Ðỗ Lai Thúy so sánh thơ Hồ Xuân Hương với thơ bà huyện Thanh Quan và cũng nhận thấy: “thơ Bà Huyện dùng rất nhiều danh từ, mà lại danh từ Hán Việt.” Hơn nữa, ông cũng lại nhận thấy, như Nguyễn Văn Trung, sự khác biệt trong hệ thống từ loại này phản ánh tâm lý cũng như triết lý sống của các nhà thơ liên hệ:

“Người lựa chọn kiểu ngôn ngữ này là người không chú ý đến bề ngoài sự vật, màu sắc và âm thanh của đời sống. Người không còn hứng thú hưởng thụ cuộc đời.”... “Ngược lại, việc sử dụng nhiều động từ chỉ hành động và tính từ chỉ phẩm chất và trạng từ chỉ mức độ chứng tỏ Xuân Hương rất chú ý đến bề ngoài sự vật. Với bà danh từ (tức ý niệm, bản chất của sự vật) không đủ, mà cũng không cần thiết, nên phải có tính từ để miêu tả những sắc thái muôn hình muôn vẻ của đời sống, phải có động từ để chỉ sự hoạt động của muôn vật, nhất là sự tương tác giữa chúng. Bởi vậy, thế giới thơ Xuân Hương đầy màu sắc, âm thanh, hình khối, ánh sáng như trong hội hè dân gian náo nhiệt. Con người sống trong bầu không khí ấy đều căng mở các giác quan để cảm thụ đời sống, một đời sống được đẩy đến cực hạn.”


Thật là rõ ràng, những tương đồng giữa hai cách phân tích thơ Hồ Xuân Hương và bà huyện Thanh Quan của Nguyễn Văn Trung và Ðỗ Lai Thúy thì vừa nhiều vừa chi tiết đến độ không thể cho là những trùng hợp ngẫu nhiên. Cũng thật là rõ ràng, Ðỗ Lai Thúy đã khai triển các phát hiện của Nguyễn Văn Trung trong cách nhận diện phong cách thơ Hồ Xuân Hương. Nói cách khác là Đỗ Lai Thúy “luộc” lại các ý chính trong cuốn sách của Nguyễn Văn Trung.

Nhưng tại sao khi lược qua lịch sử hình thành và phát triển của lối phê bình theo phong cách học tại Việt Nam, Ðỗ Lai Thúy không hề nhắc gì đến Nguyễn Văn Trung hết vậy cà? Nguyên nhân là vì Nguyễn Văn Trung là một cây bút miền Nam, hay là vì để phi tang một sự “đạo... ý”?

Những câu hỏi ấy tôi xin để cho ông Đỗ Lai Thúy trả lời. Phần tôi, tôi tự cảm thấy đắc ý khi đặt tên cho cái thói “âm thầm” lượm ý của người khác, rồi phi tang xuất xứ để biến nó thành ý của mình, là trường phái “luộc văn”.

03.10.2008

© 2008 talawas


[1]Bài “Phong cách học và phê bình văn học” của Ðỗ Lai Thúy đăng trên eVan thành 2 kỳ: Phong cách học và phê bình văn học [1/2] và Phong cách học và phê bình văn học [2/2] - Đỗ Lai Thúy (11/03/2005).

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2008

Hiện tượng văn hoá sữa độc và sỏi não

Theo Talawas

8.10.2008

Chu Đại Khả

Hiện tượng văn hoá sữa độc và sỏi não

Lý Nguyên lược dịch

Sự kiện sữa độc Trung Quốc đã trở thành vụ án điển hình của cái gọi là “thời đại sau Thế vận”. Các sản phẩm sữa bột nuớc ta hầu như sụp đổ hoàn toàn, dẫn tới sự hoài nghi sâu sắc của người đời với ngành chế tạo thực phẩm. Thế nhưng sữa bột chỉ là một góc của tảng băng mà thôi. Những phát minh khoa học kỹ thuật vô liêm sỉ đó đã được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của công nghiệp thực phẩm và do đó đã bảo vệ được cục diện hoàn mỹ trong tiêu dùng thực phẩm. Đã có nhiều người chỉ ra một cách đúng đắn, lợi nhuận trên hết và đạo đức bằng không là hai nguyên nhân chủ yếu làm độc hại thực phẩm Trung Quốc.

Công nghiệp thực phẩm có chất độc hại đã tạo ra dây chuyền tội ác tập thể khổng lồ. Trước tiên là các chuyên gia trong lĩnh vực công nghiệp hoá chất và thực phẩm làm việc đêm ngày tại các phòng thí ngiệm của các viện nghiên cứu và trường đại học, không ngừng sáng tạo ra các kỹ thuật làm giả và dùng chất độc hại, cung cấp sự ủng hộ kỹ thuật cho ngành chế tạo thực phẩm, bọn họ là những kẻ đầu têu cho việc làm hàng giả và độc hại qui mô lớn. Để kiếm được nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp đã tham lam bơm thêm nước và các chất phụ gia hoá học độc hại, tung các thực phẩm kém phẩm chất và giả mạo ra thị trường. Để thực hiện mục tiêu GDP, các chính quyền địa phương dung túng và bao che cho tội phạm thực phẩm. Các cơ quan kiểm tra thực phẩm không chỉ không phát hiện sự thực làm giả đó mà còn cấp giấy chứng nhận miễn kiểm tra cho chúng, mở cửa cho hành vi đầu độc. Trách hỏi từng khâu nói trên, tiến tới trách hỏi toàn bộ chế độ thực phẩm thì mới có thể đập tan dây chuyền tội ác thực phẩm, bảo vệ được phòng tuyến an toàn cơ bản.

Sự kiện sữa độc bị làm cho sôi sùng sục, đang thu hút ánh mắt của toàn thế giới, nhưng so với nó thì sự tự làm độc hại văn hoá Trung Quốc còn kinh hồn táng đởm hơn. Thế nhưng cho đến nay nó vẫn chưa được xem xét kỹ lưỡng và cảnh giác cần thiết.

Mặc dù khát vọng của dân chúng đối với văn hoá không như thức ăn, thế nhưng do tồn tại cơ số dân số qui mô lớn nên vẫn hình thành đòi hỏi, nhu cầu văn hoá khổng lồ. Giữa sản xuất văn hoá có hạn và nhu cầu văn hoá vô hạn đã xuất hiện mâu thuẫn gay gắt tương tự như thực phẩm. Thế nhưng chúng ta đã mất năng lực chế tạo sản phẩm có tính sáng tạo ban đầu đương đại và cũng mất năng lực chiết xuất được tài nguyên văn hoá trong kho lịch sử. Cái dạ dày to lớn của văn hoá trôi nổi trên không trung, sau một thời gian dài thiếu thốn và đói khát văn hoá nó đã biến thành càng tham lam hơn so với bất kỳ thời đại nào khác.

Để thoả mãn khát vọng của cái dạ dày văn hoá, rất nhiều sản phảm văn hoá được nhanh chóng chế tạo ra, trong đó bao gồm cả các công nghệ phức tạp như bơm nước (cho hợp khẩu vị, không chú ý giá trị), làm giả (sao chép, nguỵ tạo, bóp méo) đến làm độc hại (thêm vào các quan niệm văn hoá độc hại), chúng tạo thành hệ thống kỹ thuật có liên quan chặt chẽ, giải độc chúng sẽ có ích cho chúng ta trong việc phán xét, xác định một cách sáng rõ sản phẩm văn hoá hiện có.

Về mặt bơm nước trong văn hoá, các mạng của các công ty văn học lớn đã cung cấp cho chúng ta những vụ án thú vị. Thấy tốc độ viết tiểu thuyết nhiều kỳ của nhà văn quá chậm, dân mạng đói khát sẽ oán trách, họ đã buộc nhà văn phải tăng tốc độ viết lách, đến mức có tác giả buộc phải viết một ngày 3000 chữ là chuyện bình thường, có người nhanh hơn, đạt tốc độ trên 10.000 - 20.000 chữ/ một ngày. “Hiện tượng văn học thịnh vượng” này là quá trình bơm nước vào và làm giả. Đó cũng chính là quá trình bữa ăn nhanh được nhanh hoá mà chúng ta đã nói. Nguyên lý của nó không khác gì bơm nhiều nước vào sữa bò. Tất nhiên là nó phải dẫn tới chất lượng văn học giảm sút nghiêm trọng.

Tốc độ viết không nghi ngờ gì là thước đo quan trọng để đo xem sản phẩm văn hóa có bị rác rưởi hoá hay không. Một nhà Hán học người Đức đã nói, một nhà văn Đức viết một cuốn tiểu thuyết dài thông thường cần thời gian từ ba đến năm năm, còn theo tôi biết, những nhà văn thiên tài nổi tiếng Trung Quốc chỉ cần thời gian từ một đến ba tháng. Những nhà văn có sách bán chạy tốc độ viết càng nhanh hơn, có khi chỉ cần thời gian một đến hai tuần lễ là có thể nặn ra một bộ truyện dài. Nghe nói, nhà văn kiếm hiệp Hồng Công dùng tốc độ 30.000 chữ/ngày, còn tốc độ viết của nhà văn khoa học viễn tưởng Nghê Khuông (?) lại đạt được tốc độ kinh người 50.000 chữ/ngày. Nhưng đó không phải là tiêu chí viết lách kiểu thiên tài, mà ngược lại nó chỉ có thể thể hiện đặc điểm viết lách đã rác rưởi hoá, và mô hình những cuốn sách được viết ra đáng cười như vậy chỉ cung cấp một điển hình kích động lòng người của thời đại tiêu dùng mà thôi.

Truyền thống yêu sách của người Trung Quốc đã dẫn tới thị trường sách được mở rộng một cách cuồng nhiệt, nghe nói mỗi năm Trung Quốc có 240.000 đầu sách được xuất bản, nhưng trong đó phần lớn rõ ràng là những rác rưởi không giá trị. Việc người Trung Quốc mấy năm gần đây như đói khát đọc cổ sử cũng dẫn tới sự ra đời nhiều sách lịch sử được bơm nước vào. Những cuốn sách bán chạy cũng như những phim truyền hình nhiều tập có siêu người xem đã hình thành bữa tiệc thức ăn nhanh được bơm nước. Trong ngữ cảnh đặc thù Trung Quốc ấy, “sách bán chạy” thường là từ đồng nghĩa với sách kém chất lựơng và sách có vấn đề về văn hoá.

Một thước đo khác để đánh giá sản phẩm văn hoá là sự chân nguỵ của nó. Bơm nước vào thức ăn nhanh cuối cùng cũng có giới hạn, hơn nữa dù sao nó còn có tí chút giá trị dù là kém cỏi sau khi bị xào nấu, còn làm giả thì là sự lừa dối triệt để.

Trong lễ khai mạc và lễ bế mạc Thế vận hội lần này đều xuất hiện sự kiện “hát nhép” đáng bị chỉ trích, nhưng không những không sao mà còn được tô son vẽ phấn… Những lời khen tập thể đối với văn hoá giả dối ấy cũng là nguồn gốc để cho phong trào làm giả phồn vinh.

Một ví dụ đáng bàn luận nữa là vụ án sao chép tiểu thuyết của Quách Kính Minh (?). Trải qua điều tra, toà án phán xử bị cáo vi phạm pháp luật, phải nộp tiền phạt và đưa ra lời xin lỗi, nhưng điều khiến người ta không sao nuốt nổi là, Hội Nhà văn Trung Quốc không yêu cầu người sao chép phải công khai nhận sai mà đã khinh suất kếp nạp anh ta làm hội viên, đồng thời giúp giới truyền thông ra sức tuyên dương việc làm này, chẳng khác gì tuyên bố với người đời rằng kẻ làm giả có thể ngang nhiên giành được vinh dự văn học. Cho dù tài năng của Quách Kính Minh cần được khuyến khích, nhưng chính sách mở cửa mang luân lý phản viết lách đó đã làm cho Hội Nhà văn Trung Quốc là đồng mưu với phong trào ăn cắp.

Rõ ràng sao chép là vấn đề vi phạm sự chân thành tín nhiệm nghiêm trọng, nhưng làm giả lại thêm độc hại mới, là hành vi càng nguy hiểm hơn. Một số sản phẩm văn hoá độc hại bị ép buộc đưa vào sách giáo khoa trung, tiểu học đã là những sự vật làm hại thiếu nhi. Bộ Giáo dục yêu cầu giờ âm nhạc học tập “kịch mẫu” [1] , trong sách ngữ văn đưa thêm vào tản văn của Dư Thu Vũ [2] , Nhân dân Nhật báo (cơ quan trung ương của Đảng ựông sản Trung Quốc) đăng bài “Nhận thức cái gọi là ‘giá trị phổ thế’ [3] như thế nào”, đều là các vụ án điển hình của việc văn hoá bị thấm độc.

Điều để lại nhiều dư vị là mặc dù ngành chế tạo văn hoá sản xuất ra các sản phẩm xấu và độc hại nhưng lại không được cảnh giác ngăn chặn cần thiết như sữa độc, bởi vì trạng thái nhiễm bệnh của văn hoá trúng độc nói chung có đặc điểm hiển thị ra dưới dạng tiềm ẩn mà “ôn hoà”. Hơn nữa nó xuất hiện với bộ mặt có thêm các sản phẩm bổ trợ, thuốc dinh dưỡng hoặc thuốc đặc hiệu, nên càng có hiệu quả lừa bịp nhiều hơn, ví như, lời hát và khúc điệu trong “kịch mẫu” có tính thông tục và dễ nghe, còn tản văn của họ Dư thì tràn đầy “cảm giác lịch sử” và “kích động sex” v.v…, nhưng mùi vị đấu tranh giai cấp phát ra từ những vở “kịch mẫu” và tản văn dùng “nước mắt” để tạo ra văn phong giả dối đó, cũng như sự bao vây ác ý của “giá trị phổ thế” đã, đang làm tổn thương linh hồn một thế hệ, thậm chí mấy thế hệ, mà sự nguy hại của nó còn vượt xa melamine nhiều, bởi vì hậu quả do nó gây ra không chỉ là thân tàn mà là “não tàn” nghiêm trọng.

Người bị bệnh sỏi thận có thể dùng thuốc chữa chạy, nhưng người mắc bệnh “sỏi não” do melamine văn hoá tạo ra khó có thể chẩn đoán bằng phương pháp thông thường. Điều khiến người ta không yên tâm là khi trạng thái “não tàn” của “phần tử hiểu biết” nghiêm trọng hơn so với người bình thường thì họ làm sao chữa chạy được bệnh tật linh hồn cho dân chúng nữa? Hiện nay qua internet có thể đoán được số lượng người “não tàn” không phải là ít. Đó mới là điều đáng quan tâm chú ý.


Bản tiếng Việt © 2008 talawas


[1]Chỉ tám vở diễn được gọi là kịch mẫu, được độc diễn trong thời gian Cách mạng Văn hoá, tràn đầy nội dung đấu tranh giai cấp. (Các chú thích trong bài đều của người dịch)
[2]Dư Thu Vũ sinh năm 1946, người Chiết Giang. Gia đình và bản thân bị bức hại và đày đoạ trong Cách mạng Văn hoá. Nhờ tự học và sự giúp đỡ của thày dạy, đã trở thành nhà văn, nhà lý luận văn học, giáo sư văn học, từng làm Giám đốc Nhà hát Kịch Thượng Hải. Năm 2004 được bầu là 10 tinh anh nghệ thuật toàn Trung Quốc. Được giải thưỏng Lỗ Tấn về văn học. Năm 2008 được gọi là đại sư.
[3]Một quan niệm rất phức tạp và đang có nhiều tranh cãi (chủ trương tập hợp một số quan niệm có giới hạn nhưng được nhân loại đồng thuận lại với nhau.)

Nguồn: Hua xia kuai di ngày 2/10/2008